Rách chóp xoay vai – Góc nhìn giải phẫu, mô học
Rách chóp xoay là nguyên nhân rất phổ biến gây đau vai và giảm vận động có thể xảy ra do cả chấn thương ở bệnh nhân trẻ cũng như bệnh thoái hóa ở bệnh nhân cao tuổi.
Có thể nghi ngờ chẩn đoán lâm sàng bằng các nghiệm pháp kích thích cơ trên gai, dưới gai, tròn bé và dưới vai, nhưng để xác nhận cần chụp MRI vai.
Điều trị có thể không phẫu thuật hoặc phẫu thuật tùy thuộc vào mức độ mãn tính của các triệu chứng, mức độ nghiêm trọng của vết rách, mức độ thoái hoá mỡ cơ, độ tuổi của và nhu cầu hoạt động của bệnh nhân
Chức năng chính của chóp xoay vai là cung cấp sự ổn định động bằng cách cân bằng các lực kết hợp xung quanh khớp vai ở cả mặt phẳng thẳng đứng và ngang.
Ở mặt phẳng thẳng đứng chóp xoay vai dưới (cơ dưới gai, cơ tròn bé, cơ dưới vai) có chức năng cân bằng mô men trên do cơ delta tạo ra
Ở mặt phẳng ngang chóp xoay vai trước (cơ dưới vai) có chức năng cân bằng mô men sau do vòng xoay vai sau (cơ dưới gai và cơ tròn bé) tạo ra
Điều này duy trì điểm tựa ổn định cho chuyển động của khớp vai. Mục tiêu của việc điều trị rách chóp xoay vai là khôi phục lại trạng thái cân bằng này ở mọi mặt phẳng
Mô học chóp xoay vai gồm 5 lớp, việc hiểu được giúp giải thích tại sao hầu hết các vết rách ở mặt khớp vì mặt khớp chiếm một nửa sức mạnh của chóp xoay
Lớp I: lớp nông nhất (dày 1 mm) và bao gồm các sợi từ dây chằng quạ cánh tay kéo dài về phía sau và xiên
Lớp II: bao gồm các sợi được đóng gói dày đặc song song với trục dài của gân (dày 3-5 mm)
Lớp III: các bó collagen nhỏ hơn được sắp xếp lỏng lẻo ở góc 45° so với trục dài của gân (dày 3 mm)
Lớp IV: mô liên kết lỏng lẻo và các dải collagen dày và hợp nhất với các sợi từ dây chằng quạ cánh tay
Lớp V: bao vai (dày 2 mm)
Nguồn Orthobullets